Chỉ mục bài viết |
---|
Dung dịch làm ẩm và chất phụ gia trong in Offset |
Dung dịch làm ẩm và chất phụ gia trong in Offset - 2 |
Tất cả các trang |
Nói đến in Offset (ướt) thì phải nói đến dung dịch làm ẩm, một yếu tố có tầm quan trọng thứ 3 trong in Offset. Sự cân bằng mực nước sẽ cho kết quả in tốt và đều đặn cả palet giấy. Để đảm bảo vấn đề đó, yêu cầu trước tiên là dung dịch làm ẩm (DDLA) phải tối ưu cả về thành phần và các tính chất vật lý, hóa học của nó. Bài viết này xin bàn đôi điều về DDLA.
1. Dung dịch làm ẩm và chất phụ gia:
DDLA trong trường hợp lí tưởng có độ cứng của nước từ 8°dH đến 12°dH
(theo tiêu chuẩn Đức, phần sau sẽ nêu rõ) và độ pH từ 4,8 đến 5,5.
Bên cạnh đó, nhiệt độ DDLA cũng đóng 1 vai trò quan trọng, khoảng cho
phép từ 10°C->15°C. Một điều mà người thợ in phải biết: Nhiệt độ quá
thấp sẽ dẫn đến tình trạng DDLA đọng hạt trên các ống dẫn và trong máng
DDLA, từ đó dẫn đến việc DDLA dạng hạt khi lên bản và cao su in. Hình
dưới đây mô tả nước đóng dạng hạt:
Chất phụ gia là một hệ thống chất phức tạp từ các thành phần khác nhau,
nó cần thiết cho việc hình thành nhũ tương tối ưu khi in (trong in
offset ướt, mực in khi qua lô cao su và lên giấy không thuần khiết như
trong hũ mực vì nó có chứa 1 lượng từ 10 đến 30% DDLA), cần thiết cho
việc tạo liên kết bề mặt (ở đây muốn nói đến sức căng bề mặt). Chất phụ
gia cũng là một yếu tố để điều chỉnh độ pH của DDLA, chống lại hiện
tượng gỉ sét trên bản in.....
Vì lí do chất lượng nước khác nhau nên chất sử dụng cũng như định lượng
trong DDLA cũng khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu của nhà sản xuất.
2. Chất nền tảng: Nước
Chúng ta biết rằng, nước trong tự nhiên không hoàn toàn tinh khiết mà
có lẫn các tạp chất trong đó như chất khoáng, vi khuẩn... Đối với thợ
in, nước máy là chất chính trong DDLA. Để đánh giá về nước, người ta
thường dựa vào độ cứng của nó. Trong đó độ cứng của nước phụ thuộc
chính vào hàm lượng Calcium và Magnesium trong nước.
Trước khi pha DDLA, độ cứng của nước phải được xác định, vì DDLA sau
khi pha sẽ không thể xác định được hàm lượng các chất cần thêm vào. Độ
cứng của nước được đo bằng một dải kiểm tra.
Phần cấn trong nước sẽ dẫn đến một số vấn đề rắc rối trong khi in như:
- lô mực...không có mực do cấn bám lên.
- đóng kẹt trên tấm cao su.
- tác động đến độ pH và làm cho nó dao động, không ổn định.
Ngoài ra, quá nhiều Chlorid, Sulfat hoặc Nitrat ion sẽ dẫn đến nguy cơ ăn mòn.
Độ cứng tổng cộng của nước sẽ được đo bằng một dải kiểm tra. Phương
pháp đo khá đơn giản: Nhúng dải kiểm tra vào nước trong 1 giây, lấy ra,
chờ khoảng 2 phút rồi đọc các số liệu.
3. Độ pH:
"pH“ bắt nguồn từ tiếng la tinh (Potentia Hydrogenii), là một số logarith của nồng độ ion H+ trong dung dịch.
pH là một giá trị đo chỉ thị độ acid, base (kiềm) trong dung dịch lỏng.
Một chất lỏng độ pH = 5 có độ acid cao gấp 10 lần chất lỏng khác có độ
pH = 6. Thông thường người ta dùng bột chuyên dụng để trung tính hoá sự
tác động từ bên ngoài đến dung dịch, điều này cũng được áp dụng trong
DDLA.
Tuy nhiên việc đo độ pH không có ý nghĩa nhiều đến việc đánh giá chất
lượng DDLA, nó chỉ cho ta biết khi pha DDLA cần pha chất phụ gia như
thế nào. Chất lượng DDLA sẽ được đánh giá qua độ dẫn điện của nó.
4. Tính dẫn điện [µS/cm]:
Nước tinh khiết không dẫn điện, nhưng tạp chất trong DDLA làm gia tăng
khả năng dòng điện truyền trong DDLA và vì thế tùy thuộc vào nguồn nước
và chất phụ gia mà tính dẫn điện của DDLA cũng khác nhau.
Nhiệt độ và nồng độ cồn cũng là nguyên nhân tác động đến tính dẫn điện.
Càng nhiều cồn Iso propanol (IPA) thì tính dẫn điện càng giảm.
Giá trị đo tính dẫn điện cần được xác định cho mỗi DDLA mới sẽ được
thay cho DDLA cũ có sẵn trong máng. Khi độ dẫn điện đạt ngưỡng 1000
µS/cm thì cũng là lúc xem xét đến việc thay đổi DDLA. Để tránh các sự
cố khi in, người ta thường khuyến cáo thay DDLA sau 14 ngày, với bộ lọc
ta có thể kéo dài thời gian sử dụng DDLA hơn nhưng đó cũng chỉ là giải
pháp nhất thời.
5. Liên kết với bề mặt bản in:
Sức căng mặt ngoài của nước sẽ giảm dưới sự tác động của Gummi Arabic,
Glycol, Glycerin hoặc cồn. Loại chất nào được sử dụng đều có trong các
bảng hướng dẫn của nhà sản xuất.
Cồn, cụ thể IPA, là một chất tạo liên kết bề mặt tốt, khả năng khác của
nó là làm tăng độ nhớt của DDLA bên cạnh việc làm giảm sức căng bế mặt,
hỗ trợ tốt việc tạo màng DDLA trong hệ thống cấp ẩm, qua đó việc cấp ẩm
cho bản in sẽ điều hoà hơn. Cồn IPA bay hơi nhanh, do đó sự khô mực
cũng diễn ra nhanh hơn. Sự bay hơi của cồn còn có ý nghĩa khác: Đơn vị
in sẽ được làm mát nhờ cồn hoá hơi. Sử dụng cồn còn có tác dụng ngăn
chặn sự hình thành bọt trên bề mặt DDLA trong máng.
Kiểm tra cồn: Cồn được sử dụng trong in phải tinh khiết, có một phương
pháp kiểm tra khá đơn giản được Heidelberg trình bày như sau:
"Lấy một cốc thủy tinh sạch, cho 1 lượng nước và cồn vào cốc. Để yên
trong 30 đến 45 phút, khi đó dung dịch phải trong suốt, nếu dung dịch
trở nên mờ đục thì cồn đó không dùng được “
Đo lượng cồn trong DDLA:
Dụng cụ đo tỉ lệ chất lỏng (Aräometer – Hydrometer) có trong DDLA phải
được để tự do chuyển động trong chất lỏng nằm trong ống nghiệm thủy
tinh. Trong chất lỏng và trong dụng cụ đo không được có bong bóng khí.
Số liệu về chất lỏng trong suốt sẽ đuợc đọc từ phía dưới. Giá trị đo
tính bằng % thể tích. Nhiệt độ cũng sẽ được đo, cùng với tỉ lệ % thể
tích chất lỏng để tính ra hàm lượng IPA có trong DDLA. Tuy nhiên giá
trị này chỉ có tính tham chiếu, dựa vào bảng dưới đây để ta có thể suy
ra giá trị thật cho nồng độ IPA trong DDLA:
Chẳng hạn, giá trị đo được là 9,5% nhưng thực tế nồng độ IPA là 14%.
Việc đo cồn trong DDLA thông thường dựa vào khối lượng riêng của DDLA,
nó phụ thuộc không chỉ vào khối lượng riêng của IPA, mà còn chịu sự tác
động của nhiệt độ, chất phụ gia thêm vào và mức độ tạp chất của nó.
6. Các nhược điểm của cồn:
IPA làm tăng hiện tượng bóng ma (Schablonieren), vì DDLA tác động xấu đến nhũ tương in.
IPA có thể làm lô chà mực không có mực, sai lệch khi cấp mực, đặc biệt là khi nước sử dụng có độ cứng cao. Nguyên do là vì Calcium trong DDLA bị IPA hòa tan, khi chà bản in, Calcium trong DDLA sẽ kết tinh, đóng cục lên lô chà mực, khiến mực không thể truyền qua lô chà xuống bản in.
Quá nhiều IPA có thể làm chất kết dính trong mực in bị tiêu giảm, mức độ bóng của mực giảm, đặc biệt là mực sử dụng pigment kim loại nặng.
IPA tác động đến giấy in, ké đóng cục lên tấm cao su.
IPA là hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, thể hơi của IPA có tác động xấu đến môi trường không khí và sức khoẻ con người. Với suy nghĩ “cho nhiều thì sẽ tốt hơn”, người thợ in không rành sẽ pha IPA quá liều lượng hơn mức cần thiết cho in ấn. Vì lí do môi trường và sức khoẻ, nồng độ cồn IPA cần được kiểm tra cách 2 tuần một lần.
Lưu ý, các thông tin trên chỉ hữu dụng cho máy in Offset của hãng Heidelberg, đối với các máy in khác thì những thông tin trên chỉ có giá trị tham khảo.